Hang đá cũ nơi hàng nghìn người chết ở Thái Nguyên
Thứ Bảy, 14 tháng 6, 2014
Sở dĩ có cái tên hang Huyện là bởi khoảng năm 1865 khi quân đội người Tráng (Trung Quốc) - còn gọi là quân cờ đen, đã dùng kế hiểm hun chết hàng nghìn người của huyện tại hang sâu này. Kế hiểm, hun người trong hang đá Thông tin "cả huyện chết do giặc hun khói" đã khiến chúng tôi tò mò và mong được một lần mục sở thị sự kỳ bí của nó. Thôn Làng Tràng (Tràng Xá, Võ Nhai, Thái Nguyên) nằm bình yên giữa những ngọn núi cao xanh. Một người dân sống ngay chân núi tỏ vẻ ngạc nhiên khi biết chúng tôi tìm hiểu về hang Huyện: "Chẳng ai biết hang đó sâu đến mức nào, cũng không biết trong hang còn xương cốt không nữa. Vì đã ai khám phá hết hang đâu. Cho đến nay hang Huyện vẫn còn là điều bí ẩn với chúng tôi".
Chúng tôi được một cán bộ địa phương, người thông thạo địa hình cũng như am hiểu chút ít về hang huyện dẫn đường. Trước khi vào hang, vị cán bộ này không quên dặn dò mang theo hương hoa. "Dù sao trước đây cũng có hàng nghìn người chết. Mình cứ nên nghi lễ cho phải đạo" - anh Học thận trọng. Những người đã từng vào hang nói cần phải có những thứ thiết yếu như: Đèn pin, dao quắm, nước uống và dây thừng. Từ thung lũng ngước mắt nhìn lên những vách núi trắng bệch, nham nhở, cửa hang hiện ra chỉ như một chấm tròn đen ngòm tựa như hốc mắt của một chiếc sọ người.
Vượt qua con suối ngầu nước đỏ, bãi đá lởm chởm chỉ nhú khỏi mặt nước như những bàn tay khô quắt chực bấu vào chân người, chúng tôi bắt đầu trèo lên những dốc núi dựng đứng. Mặt trời lên đến đỉnh đầu, cả thung lũng nóng rực như chảo lửa. Thế nhưng khi mới đặt chân vào cửa hang, cảm giác ớn lạnh chạy khắp cơ thể bất kỳ ai. Chốc chốc mọi người lại nghe thấy tiếng chí chóe cắn nhau của lũ dơi. Hai bên vách của hang lũ dơi bám, đánh đu tạo thành những hình thù kỳ quái. Anh Học kể: "Ở đây hang rất sâu và tối, hơn nữa lại mát về mùa hè, mùa đông thì ấm. Hàng trăm năm nay lũ dơi đã sống ở đây rất nhiều. Ngày trước người dân trong làng còn vào hang lấy phân dơi về bón ngô, có người lấy cả xe cải tiến bán cho người ta làm thuốc súng. Đến mùa sinh sản phân dơi có khi ngập đến tận đầu gối người". Sau khi xây dựng xưởng vũ khí, một cửa thoát hiểm được mở. Chỉ bước vào cửa hang chừng 10 mét tất cả như ở địa ngục. Một màu đen đặc quánh, đèn pin chỉ soi với tầm xa hơn 1 mét, người nói thầm với nhau cũng tạo thành những tiếng động kỳ lạ. Tất cả tạo cho hang Huyện một sự kỳ bí, rùng rợn. Chợt nhớ lại câu chuyện của cụ Chu Thị May, 80 tuổi (thôn Làng Tràng), cụ bảo: "Tôi chỉ biết trước đây các cụ kể lại khi đánh giặc (quân cờ đen), cả huyện này đã bị chết ở trong hang do địch hun khói. Lúc còn trẻ chúng tôi vẫn còn thấy rất nhiều xương người, đầu lâu và tóc. Thử hỏi làm sao mà không có ma được, hàng nghìn người chết như thế…".
Những câu chuyện của cụ May cộng với khí lạnh của hang khiến mấy người chúng tôi không dám rời nhau nửa bước. Mò mẫn trong ánh đèn pin vàng đục, thỉnh thoảng những kẻ lạ mặt như chúng tôi lại giật mình, kêu thất thanh bởi những hình thù kỳ quái quanh vách hang. Có những chỗ nhũ và hốc đá tạo thành hình mặt người khắc khổ như đang khóc. Chỗ lại hình miệng lớn của một ai đó trong cơn đau dữ dội. Bên cạnh những hình dạng kỳ thú của đá tạo ra là ngổn ngang những dấu tích để lại của bộ đội ta những năm 1965 - 1966. Anh Học kể lại, những năm kháng chiến chống Mỹ, bộ đội đã từng dùng hang Huyện này làm xưởng sản xuất vũ khí. Xưởng bắt đầu đi vào sản xuất là ngày 15/10/1967.
Toàn bộ nền phía cửa hang rộng 4.40 m2 được san phẳng và xây dựng thêm một số hạ tầng khác. "Ngày chúng tôi còn nhỏ, nghe ông bà kể lại đây là hang mà hàng nghìn người chết ngạt cũng sợ lắm. Nhưng sau này giải phóng, trẻ con, người lớn lại vào hang mót lại những phôi sắt mà đơn vị bộ đội để lại những ngày sản xuất vũ khí. Có lẽ cũng từ đó mà thỉnh thoảng còn có người dám vào hang đấy. Chứ trước thì tuyệt nhiên không ai vào" - anh Học hồ hởi chỉ vào những dấu tích nói. Đi được chừng hơn 100 mét, anh Học khuyên chúng tôi nên trở lại. Bởi chính "thổ địa" như anh cũng chưa từng vào sâu tận cùng của hang. Hơn nữa những dụng cụ hỗ trợ chưa đủ tốt để đi thêm. Trở ra cửa hang ai nấy đều có cảm giác tiếc nuối như xem một bộ phim trinh thám chưa biết hồi kết.
Vượt qua con suối ngầu nước đỏ, bãi đá lởm chởm chỉ nhú khỏi mặt nước như những bàn tay khô quắt chực bấu vào chân người, chúng tôi bắt đầu trèo lên những dốc núi dựng đứng. Mặt trời lên đến đỉnh đầu, cả thung lũng nóng rực như chảo lửa. Thế nhưng khi mới đặt chân vào cửa hang, cảm giác ớn lạnh chạy khắp cơ thể bất kỳ ai. Chốc chốc mọi người lại nghe thấy tiếng chí chóe cắn nhau của lũ dơi. Hai bên vách của hang lũ dơi bám, đánh đu tạo thành những hình thù kỳ quái. Anh Học kể: "Ở đây hang rất sâu và tối, hơn nữa lại mát về mùa hè, mùa đông thì ấm. Hàng trăm năm nay lũ dơi đã sống ở đây rất nhiều. Ngày trước người dân trong làng còn vào hang lấy phân dơi về bón ngô, có người lấy cả xe cải tiến bán cho người ta làm thuốc súng. Đến mùa sinh sản phân dơi có khi ngập đến tận đầu gối người". Sau khi xây dựng xưởng vũ khí, một cửa thoát hiểm được mở. Chỉ bước vào cửa hang chừng 10 mét tất cả như ở địa ngục. Một màu đen đặc quánh, đèn pin chỉ soi với tầm xa hơn 1 mét, người nói thầm với nhau cũng tạo thành những tiếng động kỳ lạ. Tất cả tạo cho hang Huyện một sự kỳ bí, rùng rợn. Chợt nhớ lại câu chuyện của cụ Chu Thị May, 80 tuổi (thôn Làng Tràng), cụ bảo: "Tôi chỉ biết trước đây các cụ kể lại khi đánh giặc (quân cờ đen), cả huyện này đã bị chết ở trong hang do địch hun khói. Lúc còn trẻ chúng tôi vẫn còn thấy rất nhiều xương người, đầu lâu và tóc. Thử hỏi làm sao mà không có ma được, hàng nghìn người chết như thế…".
Những câu chuyện của cụ May cộng với khí lạnh của hang khiến mấy người chúng tôi không dám rời nhau nửa bước. Mò mẫn trong ánh đèn pin vàng đục, thỉnh thoảng những kẻ lạ mặt như chúng tôi lại giật mình, kêu thất thanh bởi những hình thù kỳ quái quanh vách hang. Có những chỗ nhũ và hốc đá tạo thành hình mặt người khắc khổ như đang khóc. Chỗ lại hình miệng lớn của một ai đó trong cơn đau dữ dội. Bên cạnh những hình dạng kỳ thú của đá tạo ra là ngổn ngang những dấu tích để lại của bộ đội ta những năm 1965 - 1966. Anh Học kể lại, những năm kháng chiến chống Mỹ, bộ đội đã từng dùng hang Huyện này làm xưởng sản xuất vũ khí. Xưởng bắt đầu đi vào sản xuất là ngày 15/10/1967.
Toàn bộ nền phía cửa hang rộng 4.40 m2 được san phẳng và xây dựng thêm một số hạ tầng khác. "Ngày chúng tôi còn nhỏ, nghe ông bà kể lại đây là hang mà hàng nghìn người chết ngạt cũng sợ lắm. Nhưng sau này giải phóng, trẻ con, người lớn lại vào hang mót lại những phôi sắt mà đơn vị bộ đội để lại những ngày sản xuất vũ khí. Có lẽ cũng từ đó mà thỉnh thoảng còn có người dám vào hang đấy. Chứ trước thì tuyệt nhiên không ai vào" - anh Học hồ hởi chỉ vào những dấu tích nói. Đi được chừng hơn 100 mét, anh Học khuyên chúng tôi nên trở lại. Bởi chính "thổ địa" như anh cũng chưa từng vào sâu tận cùng của hang. Hơn nữa những dụng cụ hỗ trợ chưa đủ tốt để đi thêm. Trở ra cửa hang ai nấy đều có cảm giác tiếc nuối như xem một bộ phim trinh thám chưa biết hồi kết.